Vào đầu những năm 1960, vị kỹ sư người Pháp Pierre Gilson đã thành công trong việc tổng hợp emerald bằng phương pháp chất trợ dung có chất lượng thương mại. Vào giữa những năm 1970, có nguồn thông tin cho rằng Gilson chiếm đến 95% thị trường thế giới về emerald tổng hợp (theo J. Sinkankas, Emerald and Other Beryls, Chilton Book Company, Radnor, Pennsylvania, 1981, p. 308). Mặc dù hiện nay nhà máy Gilson không còn hoạt động, tuy nhiên những viên đá tổng hợp dạng này thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thương mại và trong các phòng giám định đá quý. Các tác giả gần đây đã kiểm tra một viên emerald mài khum nặng 2,73 ct được quan tâm đặc biệt vì hiệu ứng mắt mèo trên viên đá (hình 1).
Hình 1 . Viên emerald tổng hợp Gilson hình oval được mài khum nặng 2,73 ct có hiệu ứng mắt mèo sắc nét. Ảnh: Kevin Schumacher.
Các sản phẩm emerald tổng hợp Gilson thường được nuôi cấy từ các tấm tinh thể mầm gồm các lát beryl tự nhiên được đặt song song với trục c. Kiểm tra mẫu vật dưới kính hiển vi ngọc học cho thấy các bao thể flux dạng vân tay và dạng màng mỏng, cũng như các dải bị căng dãn tạo thành các hạt thẳng hàng song song với trục c. Tất cả các đặc điểm trên đều chỉ ra rằng đây là viên đá emerald tổng hợp Gilson. Sự xuất hiện nhiều đường sinh trưởng có vết rạn đó là kết quả của sự căng dãn bên trong, gây ra bởi sự gián đoạn tăng trưởng định kỳ hoặc những thay đổi nhỏ trong thành phần hóa học khi lò nuôi cấy được nạp lại (Sinkankas, 1981; R. Diehl, “Neues zum Thema ‘Synthetischer Smaragd’: Besuch bei Pierre Gilson,” Zeitschrift der Deutschen Gemmologischen Gesellschaft, Tập 26, Số 2, 1977, trang 61–75).
Hình 2. Sự sắp xếp định hướng song song của các bao thể dạng ống chứa các bao thể flux đã tạo nên hiệu ứng mắt mèo. Ảnh: Jonathan Muyal
Cũng song song với trục c, chúng tôi quan sát thấy một mặt phẳng gồm các bao thể hình ống (hình 2) mà chính là nguyên nhân tạo nên hiệu ứng mắt mèo ở viên đá. Mặt phẳng có vô số bao thể bọt khí kéo dài/ khoang kéo dài này chứa các bao thể chất trợ dung (flux) và có thể là các tinh thể phenakit nhỏ nằm gần đáy của viên đá. Các bao thể dạng ống chứa bao thể flux được sắp xếp định hướng trong mặt phẳng này dường như cũng là kết quả của sự thay đổi các điều kiện trong quá trình sinh trưởng.
Các ảnh bao thể về emerald tổng hợp Gilson nuôi cấy từ chất trợ dung đã được ghi nhận rộng rãi (E.J. Gübelin và J.I. Koivula, Photoatlas of Inclusions in Gemstones, Vol. 3, Opinio Publishers, Basel, Thụy Sĩ, 2008). Nhưng điểm thú vị của viên đá này là kiểu dáng độc đáo của nó, với mặt phẳng chứa các bao thể chất trợ dung nằm gần với đáy của viên đá, phần tạp chất mà người thợ chế tác thông thường sẽ loại bỏ. Việc giữ lại nó đã giúp viên đá có hiệu ứng mắt mèo khá thú vị. Trên thực tế, đây là lần đầu tiên các tác giả bắt gặp một viên emerald mắt mèo được nuôi cấy bằng chất trợ dung Gilson.
Jonathan Muyal and Pierre-Yves Chatagnier
https://www.gia.edu/gems-gemology/winter-2018-microworld-gilson-cats-eye-synthetic-emerald
