Chỉ trong vài thập kỷ gần đây, tourmalin Paraiba đã trở thành một trong những loại đá quý có giá trị nhất và được săn lùng trên thế giới. Được chú ý đặc biệt là các mẫu từ mỏ Batalha huyền thoại gần Sao Jose de Batalha ở bang Paraiba của Brazil, nơi những viên đá quý này được khai thác đầu tiên. Tuy nhiên, các mẫu đẹp từ Batalha tthì hiếm và việc khai thác ở Brazil không liên tục, chủ yếu tập trung vào đá kích cỡ mili (melée) và những viên trong đá gốc thu được từ lớp đá phủ trên.
Cao điểm khai thác với khoảng 90 % tourmalin được lấy ra từ khu vực này là giữa những năm 1989 và 1992 (Cook,1993). Gần đây, một số mẫu tourmalin Paraiba, có trọng lượng từ 0,75 ct đến 0,73 ct, đã được gửi đến Phòng thí nghiệm Đá quý Đức DSEF. Theo các chủ sở hữu, chúng được lưu trong kho và lần đầu được mua là vào đầu những năm 1990.
Khi nhìn từ trên mặt bàn, một số viên đá này cho thấy sự thay đổi mầu sắc từ lam phớt tím đến lam tím dưới ánh sáng ban ngày sang lục lơ phớt xám tới lơ lục phớt xám dưới ánh sáng đèn sợi đốt. Trong hình 1 là hình ảnh viên có trọng lượng 0,81 ct. Nó có kích thước khoảng 7,30 x 3,24 x 3,31 mm và đổi mầu từ lam tím sang lục lơ.
Sự thay đổi mầu sắc của loại tourmalin chứa đồng elbait đã được ghi nhận ở một lượng nhỏ mẫu từ Nigeria (Smith và cộng sự, 2001) và Mozambique (Wentzell 2004, Went zell và cộng sự 2005, Laurs và cộng sự 2008). Tuy nhiên, theo tất cả những gì chúng tôi được biết. thì đây là báo cáo đầu tiên về tourmalin Paraiba đổi mầu từ Brazil. Các kết quả phân tích hóa là phù hợp với tourmalin elbait. Hàm lượng đồng tăng cao là tương đồng với hàm lượng được tìm thấy trong các mẫu Brazil và hàm lượng Ga thấp là điển hình cho các mẫu từ mỏ Batalha. Hầu hết tourmalin chứa đồng từ Rio Grande do Norte đều cho hàm lượng Ga cao hơn.
Hình 1: Tourmalin Paraiba từ Mỏ Batalha ở Paraiba, Brazil, với sự đổi mầu từ ánh sáng ban ngày (trái) sang ánh sáng đèn sợi đốt (phải).
Phổ hấp thụ phân cực của mẫu thể hiện trong hình 1 cho thấy các dải hấp thụ rộng ở khoảng 395 nm, 520 nm cũng như ở 690 và 910 nm trong phổ theo tia o và các dải ở 395 nm, 485 nm và 730 và 940 nm trong phổ theo tia e (Hình 2). Các dải rõ ở 395 và 520 nm có thể là do mangan hóa trị ba (Mn3+) chủ yếu được tìm thấy trong tourmalin Paraiba chưa xử lý nhiệt và các dải do Mo ở vùng mầu đỏ và hồng ngoại của phổ điện từ là do đồng hóa trị hai. Dải hấp thụ của Mn3+ ở 520 nm tạo thành các cửa sổ truyền qua Mo, một trong vùng lam tím và một trong vùng vàng-lục của phổ khả kiến, đây là nguyên nhân gây ra sự đổi mầu.
Hình 2: Phổ hấp thụ phân cực của mẫu tourmalin Paraiba trong Hình 1.
Câu hỏi đặt ra là tại sao cho đến nay người ta không gặp tourmalin Paraiba đổi mầu từ Brazil. Mầu của những viên tourmalin có mầu tự nhiên, chưa xử lý nhiệt kém hấp dẫn hơn nhiều so với “các mầu neon” đáng thèm muốn mà đã khiến cho những viên tourmalin này trở nên nổi tiếng như vậy. Như phổ hấp thụ cho thấy, có một điều rõ ràng là những viên đá được khảo sát này, tất cả đều phù hợp để xử lý nhiệt và, do đó, rất có thể trước đây hầu hết các viên đá đều đã được xử lý nhiệt trước khi chúng được đưa ra thị trường.
Tác giả:
Claudio C. Milisenda, Stefan Müller ,DSEF German Gem Lab, Prof.-Schlossmacher-Str. 1, D-55743 Idar-Oberstein
ccm@dgemg.com, s.mueller@dgemg.com
Tài liệu tham khảo:
- Cook, , 2013. The Paraiba promise. Rapaport Magazine 36(10), 130.
- Laurs, B.M. et. al, 2008. Copper-bearing (Paraiba-type) tourmaline from Mozambique. Gems & Gemology 44(l), 4-30.
- Smith, C.P., Bosshart, G., Schwarz, D., 2001. Nigeria as a new source of copper-manganese-bearing tourmaline.. Gem s & Gemology 37(3), 239-240.
- Wentzell, , 2004. Copper-bearing color change tourmaline from Mozambique. Gems & Gemology 40(3) 250-251.
- Wentzell, C., Fritz, E., Muhlmeister, , 2005. More on copper-bearing color change tourmaline from Mozambique. Gems & Gemology 41 (2), l 73-1 75.
Nguồn: IGC2023 (Trang 83-84)
